File download : http://adf.ly/nTCRe
PHẦN I ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT VÙNG AN HẢI, NINH THUẬN
Chương I
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ NHÂN VĂN
Chương I
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ NHÂN VĂN
VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÙNG
I.1- Vị trí địa lý và diện tích vùng
nghiên cứua.
Vùng An Hải Thuộc các xã: An Hải, Phước
Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Cách ngã ba giữa Quốc lộ 1A và tỉnh lộ
407 (nam thị xã Phan Rang- Tháp Chàm 12km) theo hướng tỉnh lộ 407 xuống biển
khoảng 18 km đến trung tâm vùng công tác. ( H1 ) Diện tích nghiên cứu khoảng 139 Km2,
được giới hạn bởi toạ độ địa lý:
11o 24’18” - 11o 30’30” vĩ độ Bắc
108o 55’46” - 109o 01’10” kinh độ Đông
I.2- Đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế nhân văn.
I.2- Đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế nhân văn.
I.2.1- Địa hình.
I.2.1.a- Địa hình đồi núi thấp.
Địa hình núi thấp và đồi nhỏ phân bố
chủ yếu ở phần tây nam kéo dài ra tận bờ biển trùng với phương cấu trúc chung và
rải rác một số nơi trong vùng. Độ cao tuyệt đối từ 100 - 380m, sườn dốc, đỉnh
thường nhọn. Địa hình phân cắt khá mạnh. Thảm thực vật ở đây phát triển các loài
cây thân gỗ thấp và các loài cây có gai
cứng. Đây là một hạn chế cho quá trình đi khảo sát thực địa.
I.2.1.b- Địa hình đồng bằng.
Chiếm phần lớn diện tích vùng nghiên cứu
là đồng bằng ven biển, được thành tạo bởi các trầm tích bở rời có nguồn gốc sông,
biển, hỗn hợp sông - biển, biển - đầm lầy. Bề mặt địa hình nghiêng thoải, độ
cao tuyệt đối từ vài mét đến hơn 100m. Đây là đối tượng canh tác của dân trong
vùng và đồng thời là đối tượng tìm kiếm titan sa khoáng ven biển.
I.2.2.- Mạng sông, suối, bờ biển.
I.2.2.- Mạng sông, suối, bờ biển.
Mạng sông suối trong vùng khá phong phú,
phía bắc vùng có sông Cái bắt nguồn từ sườn đông khối nâng Đà Lạt chảy về, kết
hợp với các sông nhánh khác là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cũng như vật liệu
trầm tích chính cho vùng hạ lưu. Trung tâm vùng có các sông suối nhỏ chảy qua
như: Sông Bàu Ngư bắt nguồn từ dãy núi Chà Bang huyện Ninh Phước với lưu lượng
nước ít, nhưng cũng góp phần vào việc bù đắp vật liệu và điều tiết khí hậu cho
vùng. Suối Tam Lang và một số suối khác, hội tụ với các bàu: Bàu Ngư, Bàu Sơn Hải
tạo nên mạng thủy văn đa dạng.
Bờ biển kéo dài hướng bắc- nam khoảng 18 km, nằm về phía bờ nam cửa sông Cái,
kết hợp với tác động của dòng chảy ven bờ và chịu tác động mạnh của thuỷ triều
là yếu tố thuận lợi cho quá trình tích tụ sa khoáng biển.
Quá trình xâm thực, tích tụ phát triển đường bờ tạo ra dạng địa hình bờ đặc trưng với các mũi nhô ra biển: Mũi Dinh...; Các vũng, vịnh lõm sâu vào nội địa: Vũng Ninh Chữ, vũng Sơn Hải... Các yếu tố đó làm cho địa hình đường bờ thêm phức tạp.
Quá trình xâm thực, tích tụ phát triển đường bờ tạo ra dạng địa hình bờ đặc trưng với các mũi nhô ra biển: Mũi Dinh...; Các vũng, vịnh lõm sâu vào nội địa: Vũng Ninh Chữ, vũng Sơn Hải... Các yếu tố đó làm cho địa hình đường bờ thêm phức tạp.
I.2.3.- Khí hậu.
Khí hậu vùng nghiên cứu mang tính chất nhiệt
đới miền duyên hải. Khí hậu được chia làm hai mùa tương đối rõ rệt
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa trung bình 1.400- 1.500mm, Độ ẩm tương đối 75- 85%;
Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, tổng lượng mưa mùa khô 110- 130mm, độ ẩm tương đối 70- 80%;
Nhìn chung đây là khu vực có lượng mưa trung bình trong năm thấp nhất cả nước, khí hậu khô nóng là chủ yếu.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa trung bình 1.400- 1.500mm, Độ ẩm tương đối 75- 85%;
Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, tổng lượng mưa mùa khô 110- 130mm, độ ẩm tương đối 70- 80%;
Nhìn chung đây là khu vực có lượng mưa trung bình trong năm thấp nhất cả nước, khí hậu khô nóng là chủ yếu.
I.2.4.- Dân cư
Trong vùng đại đa số dân tộc Kinh ngoài ra còn có ít dân tộc Hoa, dân tộc Chăm cùng sinh sống. Mật độ dân số tập trung cao ở các vùng thị trấn, thị xã. Trình độ dân trí phát triển. Họ sống với các ngành nghề đa dạng: công, nông, ngư nghiệp và buôn bán. Dân số ven biển mật độ thưa thớt hơn, nghề nghiệp chủ yếu nông, ngư nghiệp, một bộ phận buôn bán nhỏ. Lâm nghiệp nghèo nàn, chỉ mới có một số cánh rừng Tràm dân mới trồng chiếm diện tích ít ỏi. Ngư nghiệp tương đối phát triển, nghề nuôi trồng thuỷ sản được người dân đặc biệt chú trọng.
I.2.5.- Giao thông.
Trong vùng đại đa số dân tộc Kinh ngoài ra còn có ít dân tộc Hoa, dân tộc Chăm cùng sinh sống. Mật độ dân số tập trung cao ở các vùng thị trấn, thị xã. Trình độ dân trí phát triển. Họ sống với các ngành nghề đa dạng: công, nông, ngư nghiệp và buôn bán. Dân số ven biển mật độ thưa thớt hơn, nghề nghiệp chủ yếu nông, ngư nghiệp, một bộ phận buôn bán nhỏ. Lâm nghiệp nghèo nàn, chỉ mới có một số cánh rừng Tràm dân mới trồng chiếm diện tích ít ỏi. Ngư nghiệp tương đối phát triển, nghề nuôi trồng thuỷ sản được người dân đặc biệt chú trọng.
I.2.5.- Giao thông.
I.2.5.a- Đường bộ:
Mạng lưới giao thông trong vùng khá phát
triển, có con đường tỉnh lộ 407 là đường đất, cho nên việc đi lại khá thuận tiện.
Chưa có phương tiện giao thông công cộng mà chủ yếu bằng xe gắn máy và xe đạp.
I.2.5.b- Đường thuỷ:
Mạng lưới sông suối nhỏ và giáp biển, suối nông, lượng nước ít nên không thể đi lại bằng thuyền được. Bờ biển khá dài nhưng không có cảng, chỉ thuận lợi cho ghe thuyền nhỏ làm nghề đánh bắt thuỷ sản gần bờ.
Mạng lưới sông suối nhỏ và giáp biển, suối nông, lượng nước ít nên không thể đi lại bằng thuyền được. Bờ biển khá dài nhưng không có cảng, chỉ thuận lợi cho ghe thuyền nhỏ làm nghề đánh bắt thuỷ sản gần bờ.
Tóm lại: các đặc điểm địa lý, kinh tế, nhân
văn khu vực nghiên cứu nhìn chung thuận lợi cho việc phát triển các ngành kinh
tế: nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công. Đồng thời các yếu tố đó
góp phần cho việc thi công các đề tài nghiên cứu địa chất và khoáng sản nói
chung và phương án “Tìm kiếm đánh giá titan sa khoáng ven biển khu Từ Thiện”
nói riêng đạt hiệu quả.
I.3- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT.
Lịch sử nghiên cứu địa chất khu thiết kế gắn liền với lịch sử nghiên cứu địa chất toàn vùng và cũng được chia làm hai giai đoạn như sau:
I.3.1. Giai đoạn trước năm 1975
Trước ngày Miền Nam giải phóng (năm 1975), các tài liệu nghiên cứu địa chất và khoáng sản nói chung và sa khoáng nói riêng ở các tỉnh phía nam còn mang tính sơ lược. Theo thứ tự thời gian có vài công trình nghiên cứu sau đây
- Năm 1928 - 1932, E. Saurin nghiên cứu và tổng hợp tài liệu để thành lập tờ bản đồ địa chất Nha Trang (E- 48) tỷ lệ 1:500.000. Trong đó ông đã chia các trầm tích hệ Thứ tư thành hai thống Pleistocen (Đệ Tứ cũ) và Holocen (Đệ Tứ mới)
- Năm 1949, Shepard thành lập bản đồ trầm tích đáy biển ở vùng tây Thái Bình Dương, trong đó các trường cát hạt thô - nhỏ trước cửa sông Hồng và sông Cửu Long (ở độ sâu 20 - 50m) được các nhà địa chất biển cho là trầm tích aluvi cổ
- Năm 1950, các Chuyên viên địa chất Nhật Bản nghiên cứu và khai thác cát trắng ven biển vùng Thuỷ Triều - Cam Ranh, sau đó các công ty của Bùi Văn Quang và Nguyễn Trọng Hồng khai thác 500.000 tấn cát trắng xuất khẩu sang Nhật.
- Năm 1957 - 1971, Nguyễn Hữu Khổ, Nông Văn Bé (Đại học Hóa học Sài Gòn cũ) sơ bộ khảo sát cát trắng ven biển từ Phước Tuy đến Ba Ngòi ước lượng khoảng 2.500.000 tấn.
- Năm 1974, Nguyễn Tấn Thi có bài báo "Đóng góp mới vào nghiên cứu khoáng vật nặng trong cát của các bãi biển Việt Nam"
-Năm 1975, Nguyễn Tấn Thi và Phạm Tuyết Nhung có "Phúc trình khảo sát sơ khởi cát đen tại bờ biển Việt Nam" Các tác giả đã tổng hợp tài liệu, lập bảng thống kê hàm lượng khoáng vật nặng của 13 vùng ven biển trên lãnh thổ Miền Nam, Việt Nam.
I.3.2- Giai đoạn sau năm 1975
I.3- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT.
Lịch sử nghiên cứu địa chất khu thiết kế gắn liền với lịch sử nghiên cứu địa chất toàn vùng và cũng được chia làm hai giai đoạn như sau:
I.3.1. Giai đoạn trước năm 1975
Trước ngày Miền Nam giải phóng (năm 1975), các tài liệu nghiên cứu địa chất và khoáng sản nói chung và sa khoáng nói riêng ở các tỉnh phía nam còn mang tính sơ lược. Theo thứ tự thời gian có vài công trình nghiên cứu sau đây
- Năm 1928 - 1932, E. Saurin nghiên cứu và tổng hợp tài liệu để thành lập tờ bản đồ địa chất Nha Trang (E- 48) tỷ lệ 1:500.000. Trong đó ông đã chia các trầm tích hệ Thứ tư thành hai thống Pleistocen (Đệ Tứ cũ) và Holocen (Đệ Tứ mới)
- Năm 1949, Shepard thành lập bản đồ trầm tích đáy biển ở vùng tây Thái Bình Dương, trong đó các trường cát hạt thô - nhỏ trước cửa sông Hồng và sông Cửu Long (ở độ sâu 20 - 50m) được các nhà địa chất biển cho là trầm tích aluvi cổ
- Năm 1950, các Chuyên viên địa chất Nhật Bản nghiên cứu và khai thác cát trắng ven biển vùng Thuỷ Triều - Cam Ranh, sau đó các công ty của Bùi Văn Quang và Nguyễn Trọng Hồng khai thác 500.000 tấn cát trắng xuất khẩu sang Nhật.
- Năm 1957 - 1971, Nguyễn Hữu Khổ, Nông Văn Bé (Đại học Hóa học Sài Gòn cũ) sơ bộ khảo sát cát trắng ven biển từ Phước Tuy đến Ba Ngòi ước lượng khoảng 2.500.000 tấn.
- Năm 1974, Nguyễn Tấn Thi có bài báo "Đóng góp mới vào nghiên cứu khoáng vật nặng trong cát của các bãi biển Việt Nam"
-Năm 1975, Nguyễn Tấn Thi và Phạm Tuyết Nhung có "Phúc trình khảo sát sơ khởi cát đen tại bờ biển Việt Nam" Các tác giả đã tổng hợp tài liệu, lập bảng thống kê hàm lượng khoáng vật nặng của 13 vùng ven biển trên lãnh thổ Miền Nam, Việt Nam.
I.3.2- Giai đoạn sau năm 1975
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng,
các công trình nghiên cứu địa chất và
khoáng sản được xúc tiến khá toàn diện và có hệ thống. Thống kê sơ bộ theo thời
gian, có một số công trình nghiên cứu sau:
Năm 1975 - 1979, Nguyễn Xuân Bao, Trần
Đức Lương và n.n.k đã thành lập Bản đồ địa
chất tỷ lệ 1:500.000 toàn lãnh thổ Miền Nam.
- Năm 1985, Nguyễn Kim Hoàn và n.n.k
(Viện nghiên cứu Địa chất) hoàn thành đề tài: "Đặc điểm địa chất và triển
vọng khoáng sản titan sa khoáng ven biển Việt Nam". Các tác giả đã phát hiện hoặc tái khẳng định
nhiều điểm tụ khoáng có giá trị, trong đó một số vị trí được tính tài nguyên dự
báo cấp C2 + P1.
-Năm 1991 Hồ Trọng Ký đoàn địa chất Việt
Tiệp đã có báo cáo đo vẽ thành lập bản đồ địa chất khoáng sản nhóm tờ Cam Ranh
- Phan Rang
- Năm 1991 - 1994, Nguyễn Biểu và
n.n.k đã điều tra địa chất và tìm kiếm khoáng sản sa khoáng ven bờ (0 - 30m nước)
Miền Trung (Nga Sơn - Vũng Tàu). Công trình này đã nhắc đến các điểm sa khoáng
Mũi Né, Bình Nhơn, Hàm Tân, La Gi, Hòn Gốm, Ba ngòi - Cam Ranh... Đây tài liệu
quý, có tính định hướng cho công tác tìm kiếm sa khoáng tiếp theo.
- Năm 1995, tập thể các nhà địa chất Liên đoàn Bản đồ Địa chất 6 hoàn thành công trình đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:200.000. Công trình này đã xếp các thành tạo bở rời ven biển Nam Trung Bộ thuộc trầm tích Đệ Tứ và đã sơ bộ phân chia theo nguồn gốc trầm tích và phân chia đến bậc. Đặc biệt công trình này cũng chỉ ra nhiều tụ khoáng ven biển định hướng cho công tác tìm kiếm tiếp theo.
- Năm 1995, tập thể các nhà địa chất Liên đoàn Bản đồ Địa chất 6 hoàn thành công trình đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:200.000. Công trình này đã xếp các thành tạo bở rời ven biển Nam Trung Bộ thuộc trầm tích Đệ Tứ và đã sơ bộ phân chia theo nguồn gốc trầm tích và phân chia đến bậc. Đặc biệt công trình này cũng chỉ ra nhiều tụ khoáng ven biển định hướng cho công tác tìm kiếm tiếp theo.
Năm 2004 (từ tháng 8 đến tháng 9), Đội khảo sát Liên đoàn
Địa chất Trung Trung Bộ dựa trên kết quả tổng hợp các tài liệu đã có tiến hành
khảo sát thực địa 8 vùng: Đầm Môn (Khánh Hoà), An Hải (Ninh Thuận), Tuy Phong,
Bắc Phan Thiết, Nam Phan Thiết, Tân Thắng (Bình Thuận), Hồ Tràm, Long Hải (Bà Rịa-
Vũng Tàu). Đội đã tiến hành 300 mét khoan tay, phân tích 97 mẫu trọng sa cơ bản,
16 mẫu trọng sa toàn diện. Các tác giả bước đầu nhận định các phân vị Đệ Tứ có
khả năng chứa sa khoáng ilmenit, zircon... Thuộc các tích tụ: trầm tích biển tướng
bar cát hệ tầng Phan Thiết (mbQ12-3pt),
tích tụ trầm tích nguồn gốc gió Holocen
trung- thượng, Holocen thượng: mvQ22-3,
vQ23.
Theo thời gian, các công trình nghiên
cứu địa chất, khoáng sản, các nghiên cứu chuyên đề : địa mạo, kiến tạo, chuyên
khoáng... Đã góp phần làm sáng tỏ hơn về cấu trúc địa chất và khoáng sản Miền
Nam nói chung và ven biển Nam Trung Bộ nói riêng mà trong đó có vùng An Hải.
Nhiều công trình nghiên cứu địa chất và khoáng sản sa khoáng đã khẳng định khu vực Nam Trung Bộ giàu tiềm năng sa khoáng. Tuy nhiên trữ lượng đã thăm dò và tài nguyên dự báo thấp hơn nhiều so với khu vực Trung Trung Bộ và Bắc Trung Bộ, song hàm lượng zircon cao hơn và diện phân bố các đối tượng chứa sa khoáng rất rộng. Hiện nay titan sa khoáng ven biển được các đơn vị khai thác và xuất khẩu tinh quặng ilmenit, chủ yếu sang Nhật Bản và Trung Quốc với sản lượng. Sản lượng khai thác quặng titan toàn quốc năm 1995: 57.000 tấn; năm 1996: 63.000 tấn; năm 1997: 97.000 tấn; năm 1998: 116.000 tấn; năm 1999: 177.000 tấn.
Nhiều công trình nghiên cứu địa chất và khoáng sản sa khoáng đã khẳng định khu vực Nam Trung Bộ giàu tiềm năng sa khoáng. Tuy nhiên trữ lượng đã thăm dò và tài nguyên dự báo thấp hơn nhiều so với khu vực Trung Trung Bộ và Bắc Trung Bộ, song hàm lượng zircon cao hơn và diện phân bố các đối tượng chứa sa khoáng rất rộng. Hiện nay titan sa khoáng ven biển được các đơn vị khai thác và xuất khẩu tinh quặng ilmenit, chủ yếu sang Nhật Bản và Trung Quốc với sản lượng. Sản lượng khai thác quặng titan toàn quốc năm 1995: 57.000 tấn; năm 1996: 63.000 tấn; năm 1997: 97.000 tấn; năm 1998: 116.000 tấn; năm 1999: 177.000 tấn.
Công nghệ khai thác titan của các
doanh nghiệp trong nước về cơ bản giống nhau: dùng dòng chảy sức nước kết hợp với
máy xúc, máy gạt, tuyển bằng phân ly côn, tuyển vít đứng và tuyển từ. Công nghệ
tuyển khoáng Việt Nam có thể tuyển tinh quặng đến hàm lượng thương phẩm:
ilmenit chứa TiO2>52%; Zircon > 60- 65%; Rutin> 90%.
Như vậy thì việc tiến hành tìm
kiếm đánh giá titan sa khoáng ven biển khu Từ Thiện là việc làm cần thiết, góp
phần vào công cuộc phát triển kinh tế địa phương cũng như thêm cơ sở cho chiến
lược phát triển kinh tế của đất nước.
Chương II...