humghn.com
Tài liệu đầy đủ các bạn download tại đây : http://adf.ly/ntcxZ
Các yếu tố khí hậu, kiến tạo, địa hình, mực biển tác động trực tiếp đến đặc tính của bồn cung cấp, bồn thu nhận và hình thức TGC. Để cung cấp vật liệu thì ngoài bồn cung cấp còn tùy thuộc vào hình thức vận động của sông và sức nặng trầm tích. Tương tự, để trầm tích vật liệu ở bồn trầm tích thì còn phụ thuộc vào độ sâu bồn trầm tích, sóng và triều. Tất cả những yếu tố ảnh hưởng này sẽ cho ra hình thức lắng đọng tam giác châu. Nếu sông chiếm ưu thế thì TGC sẽ có dạng địa mạo tương ứng, còn sóng hay triều chiếm ưu thế thì sẽ cho dạng địa mạo đặc trưng cho từng loại. TGC có địa mạo như thế nào thì sẽ có tướng trầm tích tương ứng với nó. Điều kiện tối ưu để tạo lập TGC đó là sông lớn, thềm lục địa rộng, năng lượng sóng thấp và biên độ triều thấp. Thềm lục địa quá sâu hoặc quá hẹp sẽ giới hạn sự tích tụ VLTT, năng lượng sóng quá cao có khuynh hướng rửa trôi tất cả VLTT do sông mang ra, những dãy núi gần biển làm cho sông hẹp lòng mang VLTT hạn chế.
1. Định
nghĩa tam giác châu: là
phần của dãy rìa biển, bao gồm tam giác châu, bãi biển, và hệ thống đảo ngầm, cửa
sông, và ao hồ. Tam giác châu có mặt nơi dòng nước hay
sông chảy vào 1 bộ phận nước đứng yên, thường hiện diện nơi bờ biển quay về cùng
1 hướng.
s Tài liệu đầy đủ các bạn download tại đây : http://adf.ly/nfN2z
Tướng
tam giác châu và những đặc trưng:
Theo
trắc diện đứng tam giác châu ta có:
- Trán tam giác châu: nằm ở
nơi tiếp giáp biển và đất liền, còn gọi là bộ đầu với vật liệu khá thô hạt, có
độ dốc tương đối lớn khoảng 10 – 25o, có độ sâu <10m. Đặc trưng sụp
lún, đứt gãy, dòng bùn, đứt gãy lớn. Nhìn chung, trán tam giác châu chịu ảnh hưởng
của sóng khá nhiều.
- Tiền tam giác châu: có độ
sâu từ 10 – 100m, càng về phía đáy thì vật liệu càng mịn (thường là sét), có mặt
lớp hơi nghiêng nên còn gọi là triền tam giác châu.
Theo
trắc diện ngang của tam giác châu ta có:
- Tam giác châu thượng: là
phần tam giác châu nổi trên mặt nước, chiếm phần lớn diện tích. Đáy được gọi là
bộ đáy với vật liệu thô hạt gồm cát và sạn sỏi (vật liệu trầm tích của dòng nước).
Gồm những đơn vị địa mạo đặc trưng: lòng máng, đầm lầy, bưng lầy, đồng lụt ao.
Tam giác châu thương không chịu tác dụng của cách trầm tích biển. Thành phần hạt
độ khá phức tạp: ven đê tự nhiên thô hạt, càng vào sâu bên trong càng mịn dần.
- Tam giác châu hạ: là phần
tam giác châu phân bố ở vùng nước cạn, vùng gian triều. Nó nằm trong khoảng từ
ngầm dưới nước đến trung gian nổi lên mặt nước. Có thể có vật liệu chọn lọc tốt
hoặc vật liệu chọn lọc kém do tiến trình sông chiếm ưu thế.
Yêu cầu để tạo lập Tam Giác Châu:
a. Vị Trí:
–
Tam giác châu tạo lập trên thềm lục địa
(độ sâu mực nước khoảng < 120m)
–
Tam giác châu là mặt phân cách giữa trầm
tích lục địa và biển
–
Tam giác châu là nơi bảo tồn chính chất
trầm tích lục địa (vỏ Trái đất đang sụp lún dưới trọng lượng của hơn 10.000
feet (300m) bề dày các chất trầm tích trong vịnh sông Mississippi)
–
Tam giác châu thường gặp trong môi trường
hiện tại
–
Do mực nước đứng khi thủy triều cao
–
Có thể giải thích sự thiếu hụt tích chất
quạt trầm tích biển sâu/dòng đục tương ứng
–
Thường hiện diện nơi rìa lục địa tĩnh :
sức nặng trầm tích ở lớp trì (hay lớp treo).
b.Yêu
cầu:
–
Tùy thuộc vào sự cân bằng giữa sự cung cấp vật liệu TT
của sông và di chuyển bởi tiến trình tạo lập bồn TT.
–
TGC được tạo lập
và phá hủy nhanh chóng, phụ thuộc vào điều kiện kiến tạo (những nơi có đứt gãy
sâu hoặc các đới hút chìm sẽ khó hình thành các tam giác châu lớn).
Các yếu tố ảnh hưởng đến địa hình tam giác châu:
–
Bồn
cung cấp: chế độ điều tiết, đường kính vật liệu trầm tích, khối lượng vật liệu
trầm tích.
–
Bồn
thu nhận: độ sâu, sóng và triều
–
Mực
biển tương đối: kiến tạo, sự thay đổi mực biển do Trái Đất quay, điều kiện khí
hậu.
Có
thể tóm lược các yếu tố này qua sơ đồ sau:
các yếu tố khí hậu, kiến tạo, địa hình, mực biển
tác động trực tiếp đến đặc tính của bồn cung cấp, bồn thu nhận và hình thức
TGC. Để cung cấp vật liệu thì ngoài bồn cung cấp còn tùy thuộc vào hình thức vận
động của sông và sức nặng trầm tích. Tương tự, để trầm tích vật liệu ở bồn trầm
tích thì còn phụ thuộc vào độ sâu bồn trầm tích, sóng và triều. Tất cả những yếu
tố ảnh hưởng này sẽ cho ra hình thức lắng đọng tam giác châu. Nếu sông chiếm ưu
thế thì TGC sẽ có dạng địa mạo tương ứng, còn sóng hay triều chiếm ưu thế thì sẽ
cho dạng địa mạo đặc trưng cho từng loại.
TGC có địa mạo như thế nào thì sẽ có tướng trầm tích tương ứng với nó.
Điều kiện tối ưu để tạo lập TGC đó là sông lớn, thềm lục địa rộng, năng lượng
sóng thấp và biên độ triều thấp. Thềm lục địa quá sâu hoặc quá hẹp sẽ giới hạn sự
tích tụ VLTT, năng lượng sóng quá cao có khuynh hướng rửa trôi tất cả VLTT do
sông mang ra, những dãy núi gần biển làm cho sông hẹp lòng mang VLTT hạn chế.
Ảnh hưởng của sóng đến Tam giác châu:
1. Sóng là gì?
Dưới tác dụng của gió, tức là do ma sát giữa luồng không khí với mặt nước, các phần tử nước tầng trên bị dao động sóng trong mặt phẳng vuông góc với bề mặt thủy vực theo quỹ đạo hình tròn và theo hướng gió thổi.
2. Tác dụng của sóng:
Sóng :một trong những tác nhân quan trọng trong phát triển địa hình vùng Tam giác châu.
Vai trò của sóng:
Chọn lọc và tái bố trí vật liệu TT được sông mang ra cũng như vật liệu TT do sóng vận chuyển và định dạng các vật liệu này thành các dạng địa hình đặc trưng như: bãi biển ngáng cát, mũi cát…Sóng còn là yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát địa hình, phân bố cát, định hướng và xác định thành phần khoáng vật
Trong nghiên cứu động lực, người ta phân chia ra hai loại: sóng biển sâu và sóng biển nông. Vì theo nguyên tắc thì sóng tắt dần khi xuống sâu, nên việc phân biệt hai loại sóng này trước hết trên tương quan giữa độ sâu thực của thuỷ vực và độ sâu mà dao động sóng có thể đạt tới.
Sóng biển sâu là gì? Là sóng ở các thuỷ vực mà độ sâu đáy lớn hơn độ sau tối đa có thể có dao động sóng.
Sóng biển nông là gì? Là sóng có thể có tác động trực tiếp lên bề mặt đáy hay đúng hơn là tác động lên sườn bờ ngầm.Như vậy loại sóng nào mơi là tác nhân chính trong quá trình bồi tụ cũng như phá huỷ địa hình Tam giác châu?Qua nghiên cứu cho thấy sóng biển nông có thể gây tác động trực tiếp lên đáy đồng thời cũng chịu tác động của đáy do ma sát và vì vậy mà bị biến dạng. Trong tương tác này thì sóng đã dùng năng lượng của mình để cải biến mặt đáy và vận chuyển vật liệu vụn.
Sóng thường không đánh thẳng góc với bờ,vì thế sự di chuyển VLTT vào bờ cũng không vuông góc với đường bờ. Ngược lại, sóng rút ra và kết hợp di chuyển VLTT ra thì lại thẳng góc với đường bờ (vì là đường ngắn nhất). Kiểu sóng di chuyển này sẽ tạo ra 1 dòng nằm song song với bờ được gọi là dòng ven bờ (longshore current) và tạo ra sự di chuyển VLTT dọc bờ.
Ảnh hưởng của sóng đến Tam giác châu:
1. Sóng là gì?
Dưới tác dụng của gió, tức là do ma sát giữa luồng không khí với mặt nước, các phần tử nước tầng trên bị dao động sóng trong mặt phẳng vuông góc với bề mặt thủy vực theo quỹ đạo hình tròn và theo hướng gió thổi.
2. Tác dụng của sóng:
Sóng :một trong những tác nhân quan trọng trong phát triển địa hình vùng Tam giác châu.
Vai trò của sóng:
Chọn lọc và tái bố trí vật liệu TT được sông mang ra cũng như vật liệu TT do sóng vận chuyển và định dạng các vật liệu này thành các dạng địa hình đặc trưng như: bãi biển ngáng cát, mũi cát…Sóng còn là yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát địa hình, phân bố cát, định hướng và xác định thành phần khoáng vật
Trong nghiên cứu động lực, người ta phân chia ra hai loại: sóng biển sâu và sóng biển nông. Vì theo nguyên tắc thì sóng tắt dần khi xuống sâu, nên việc phân biệt hai loại sóng này trước hết trên tương quan giữa độ sâu thực của thuỷ vực và độ sâu mà dao động sóng có thể đạt tới.
Sóng biển sâu là gì? Là sóng ở các thuỷ vực mà độ sâu đáy lớn hơn độ sau tối đa có thể có dao động sóng.
Sóng biển nông là gì? Là sóng có thể có tác động trực tiếp lên bề mặt đáy hay đúng hơn là tác động lên sườn bờ ngầm.Như vậy loại sóng nào mơi là tác nhân chính trong quá trình bồi tụ cũng như phá huỷ địa hình Tam giác châu?Qua nghiên cứu cho thấy sóng biển nông có thể gây tác động trực tiếp lên đáy đồng thời cũng chịu tác động của đáy do ma sát và vì vậy mà bị biến dạng. Trong tương tác này thì sóng đã dùng năng lượng của mình để cải biến mặt đáy và vận chuyển vật liệu vụn.
Sóng thường không đánh thẳng góc với bờ,vì thế sự di chuyển VLTT vào bờ cũng không vuông góc với đường bờ. Ngược lại, sóng rút ra và kết hợp di chuyển VLTT ra thì lại thẳng góc với đường bờ (vì là đường ngắn nhất). Kiểu sóng di chuyển này sẽ tạo ra 1 dòng nằm song song với bờ được gọi là dòng ven bờ (longshore current) và tạo ra sự di chuyển VLTT dọc bờ.